Habeco: Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng

Không chỉ chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, Tổng công ty Bia- Rượu- Nước giải khát Hà Nội (Habeco) không ngừng đổi mới công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn vệ sinh công nghiệp, thực phẩm và bảo vệ môi trường.

 Tiên phong về chất lượng

Theo lãnh đạo Habeco, Việt Nam ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, vì vậy, nhiều hãng bia hàng đầu trên thế giới với tiềm lực tài chính dồi dào đã thâm nhập sâu vào thị trường Việt Nam, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các hãng bia trong nước với các hãng bia ngoại nhập.

Trước những thách thức đó, để đứng vững trên thị trường, Habeco đã chủ động xây dựng chiến lược trong hoạt động kinh doanh, trong đó xác định: Chất lượng sản phẩm là yếu tố then chốt trong việc phát triển và chiếm lĩnh thị trường. Trong thời gian qua, Habeco không ngừng nỗ lực đầu tư, đổi mới công nghệ,  phân phối ra thị trường những sản phẩm có chất lượng ổn định, loại bỏ được nhiều chất độc hại trong các khâu chế biến.

Không chỉ đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, năm 2015, Habeco còn tiến hành thay hình ảnh nắp và nhãn cho sản phẩm bia Hà Nội chai 450ml. Sự thay đổi đã đem lại cho sản phẩm “diện mạo” mới, hiện đại nhưng vẫn mang cảm giác gần gũi và ấm áp. Các họa tiết trên nắp chai được in 4 màu trên nền vàng nhũ ánh kim, phối hợp cùng nhãn chính tạo nên một sản phẩm rất “sáng” và bắt mắt.

Nhờ sự nỗ lực nâng cao chất lượng và hình ảnh, các sản phẩm của bia Hà Nội không chỉ vững chân tại thị trường nội địa, mà còn mở rộng thị trường ra thế giới khi xuất khẩu thành công sang các nước như Hàn Quốc, Anh, Đức, Hà Lan, Mỹ, Úc và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Các sản phẩm và thương hiệu bia Hà Nội được đánh giá cao về chất lượng, đạt nhiều giải thưởng quốc tế như Giải thưởng Chất lượng châu Á – Thái Bình Dương; Nhãn hiệu nổi tiếng Brussels – Bỉ; Giải thưởng Thương hiệu mạnh quốc tế Madrid…

Hướng tới sản xuất xanh

Theo lãnh đạo Habeco, việc đầu tư đổi mới công nghệ không những nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn góp phần bảo vệ môi trường, hướng tới sản xuất xanh. Từ nhà nấu, lò hơi đến hệ thống xử lý nước, nuôi cấy men, lên men bằng tank tự động ngoài trời, hệ thống lọc, lạnh, xử lý nước thải… đã được thay mới và cải tiến bằng nhà nấu liên hoàn, dùng công nghệ nghiền malt ướt… Bên cạnh đó, hệ thống keg bia hơi được thay đổi về dung tích và làm kín hơn để. Để quản lý tốt hơn chất lượng bia hơi trên thị trường, Habeco cũng trang bị hệ thống vòi, giá rót bia đồng bộ với keg nên đã hạn chế việc pha trộn bia khác.

Ông Nguyễn Hồng Linh – Tổng giám đốc Habeco – cho biết, tổng công ty đã đầu tư trên 30 tỷ đồng lắp đặt hệ thống thu gom và xử lý nước thải của CHLB Đức, sau khi hệ thống này đi vào hoạt động, nước thải sau xử lý của tổng công ty đạt tiêu chuẩn B. Đồng thời, Habeco cũng triển khai xây dựng, áp dụng Hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn TCVN/ISO 14001:2004 được cơ quan TUV Nort (CHLB Đức) cấp giấy chứng nhận. Cùng với đầu tư công nghệ hiện đại và áp dụng các giải pháp khoa học kỹ thuật, sản xuất sạch hơn, hàng năm Habeco còn “chi” cho việc mua hóa chất xử lý nước thải tại nhà máy sản xuất ở nhà máy 183 Hoàng Hoa Thám – Hà Nội hàng trăm triệu đồng.

Bên cạnh đó, Habeco cũng không ngừng khuyến khích cán bộ, công nhân viên trong tổng công ty thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất với mục tiêu tất cả các doanh nghiệp trong tổng công ty đều thực hiện tốt chương trình 5S “Sàng lọc, sắp xếp, sạch sẽ, săn sóc, sẵn sàng”.

 Các sáng kiến, cải tiến, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh đã giúp Habeco tháo gỡ được nhiều khó khăn, tiết kiệm chi phí, đảm bảo an toàn, cải thiện điều kiện làm việc, bảo vệ môi trường cho hầu hết các đơn vị.

Theo sxsh.vn

Lợi ích lớn khi doanh nghiệp tự tiết kiệm năng lượng

Ngoài việc giúp giảm chi phí cho phần năng lượng phục vụ sản xuất cũng như sinh hoạt, các doanh nghiệp tham gia chương trình ký hợp đồng sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả của Bộ Công Thương sẽ nhận rất nhiều lợi ích khác như quảng bá thương hiệu, tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá thành và nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm.

Được hỗ trợ nhiều mặt

Việc tiết giảm năng lượng thông qua các hoạt động cải tiến, đổi mới công nghệ, cải thiện quy trình giám sát, quản lý đã và đang được nhiều doanh nghiệp quan tâm. Hiện có nhiều ngành công nghiệp có tiềm năng tiết kiệm năng lượng hiệu quả khi ứng dụng công nghệ mới, dây chuyền sản xuất mới và thông qua các chương trình tư vấn sử dụng năng lượng của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương. Điển hình như sản xuất gạch ngói, gốm sứ, sản xuất giấy và bột giấy, dệt may, chế biến thực phẩm; trong đó, chí phí năng lượng trong ngành sản xuất gạch ngói chiếm từ 45-50% giá thành.

Theo ông Huỳnh Kim Tước, Giám đốc Trung tâm Tiết kiệm năng lượng Tp. Hồ Chí Minh, khi ký kết hợp đồng thỏa thuận tự nguyện về sử dụng tiết kiệm năng lượng, các doanh nghiệp sẽ hưởng nhiều lợi ích lâu dài và bền vững. Điển hình như doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ 100% chi phí kiểm toán năng lượng, các nhu cầu đầu tư, đổi mới công nghệ cũng được Bộ Công Thương xem xét trong các gói hỗ trợ của chương trình.

Ngoài ra, các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ về kĩ thuật, quảng bá thương hiệu, kiểm toán năng lượng, xác định các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Trong quá trình thực hiện, khi có kết quả tốt doanh nghiệp được cấp chứng nhận tham gia chương trình này. Đây chính là điều kiện tốt để các doanh nghiệp “ghi điểm” về bảo vệ môi trường, giảm thải khí nhà kính khi có nhu cầu xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường khó tính.

Khi các doanh nghiệp tham gia ký kết hợp đồng tiết kiệm năng lượng theo các dự án của Bộ Công Thương, doanh nghiệp sẽ được Ngân hàng Thế giới tài trợ nguồn kinh phí đầu tư như hỗ trợ vay vốn 200 triệu USD và thưởng tối đa 30% khoản vốn vay khi tiết kiệm nguồn năng lượng như đã thỏa thuận.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng được hỗ trợ 50% kinh phí thực hiện kiểm toán năng lượng/doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp có mức tiêu thụ 3 triệu kWh/năm trở lên và hỗ trợ 50% kinh phí tư vấn khi triển khai áp dụng mô hình quản lý năng lượng, ông Lê Phú Hưng, Phó Vụ trưởng Vụ tiết kiệm Năng lượng, Bộ Công Thương cho biết.

Nâng cao khả năng cạnh tranh

Các dự án, chương trình thỏa thuận tiết kiệm năng lượng không những giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất mà còn tăng tính cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đây là con đường để các doanh nghiệp khẳng định chỗ đứng trong xu thế hội nhập hiện nay.

Theo đại diện Công ty cổ phần Lương thực thực phẩm Miliket – Colusa, hiện nay nhờ việc theo dõi chặt chẽ điện năng tiêu thụ tại hệ thống lò hơi, các thiết bị sử dụng hơi, các dây chuyền sản xuất mì, phở và có những giải pháp khắc phục kịp thời nên mức tiêu thụ năng lượng tại khu vực này giảm nhiều, chỉ còn 59 kWh/tấn sản phẩm, thay vì 64 kWh/tấn sản phẩm như trước đây. Sự tiết giảm này cũng giúp cho giá thành sản phẩm của công ty thấp hơn, dễ cạnh tranh hơn so với nhiều sản phẩm cùng loại khác.

Với doanh nghiệp chế biến thủy hải sản, hệ thống làm lạnh phục vụ cho sản xuất và dự trữ chiếm khoảng 70% tổng năng lượng tiêu thụ. Do đó, thời gian qua, doanh nghiệp từng bước thay thế thiết bị cũ, lạc hậu, tiêu tốn điện năng bằng thiết bị mới có khả năng tiết kiệm điện.

Đối với hệ thống chiếu sáng, doanh nghiệp ưu tiên sử dụng hệ thống đèn Led tại các dây chuyền sản xuất, nhà kho, nhà xưởng… Những cải tiến này giúp doanh nghiệp giảm 8% điện năng tiêu thụ so với năm 2014.

Ngoài ra, doanh nghiệp còn ứng dụng hệ thống điều hòa trung tâm, thường xuyên kiểm tra các thiết bị vận hành trong quy trình sản xuất và kịp thời xử lý nhanh chóng các sự cố gây tổn thất điện năng, ông Nguyễn Quốc Trí, Trưởng phòng Kỹ thuật, Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Sông Hậu cho biết.

Theo ông Huỳnh Kim Tước, khi doanh nghiệp tham gia ký kết hợp đồng sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, tuân thủ đúng quy trình tư vấn sử dụng năng lượng có thể giúp doanh nghiệp tiết kiệm từ 5-8% điện năng, điều này cũng đồng nghĩa giúp doanh nghiệp giảm từ 5-8% giá thành sản phẩm. Từ đó, các doanh nghiệp này có thể nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước và thế giới.

Trong năm 2014, cả nước tiêu thụ gần 149 tỷ kWh điện cho sản xuất và sinh hoạt; trong đó địa bàn Tp. Hồ Chí Minh chiếm 29 tỷ kWh. Khi các doanh nghiệp đồng loạt tham gia sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả sẽ giúp lượng điện tiêu thụ của cả nước có xu hướng giảm, cũng đồng nghĩa với giảm chi phí cho các chương trình bảo vệ môi trường, giảm thiểu khí thải nhà kính, mang lại lợi ích lớn trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

Theo tietkiemnangluong.com.vn 

Bình Thuận: Tổ chức phản biện 05 báo cáo đánh giá nhanh sản xuất sạch hơn được hỗ trợ năm 2015

Ngày 10/12/2015 Trung tâm Khuyến công đã phối hợp với Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ Tài nguyên và Môi trường thuộc Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Tp.Hồ Chí Minh (Đơn vị tư vấn) tổ chức buổi làm việc với 04 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Thuận được hỗ trợ đánh giá sản xuất sạch hơn trong năm 2015.

Tham dự buổi làm việc về phía Trung tâm Khuyến công có Ông Phạm Phú Xuân – Phó Giám đốc và các học viên của Trung tâm tham gia lớp đào tạo nâng cao cán bộ tuyên truyền & đánh giá sản xuất sạch hơn năm 2015 và thực hành đánh giá về sản xuất sạch hơn tại nhà máy của 05 doanh nghiệp được hỗ trợ đánh giá SXSH; Về phía Đơn vị tư vấn có Bà Nguyễn Thị Truyền – Giám đốc Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ Tài nguyên và Môi trường – Chuyên gia sản xuất sạch hơn và sự hiện diện của lãnh đạo và nhân viên kỹ thuật 04 doanh nghiệp là: Công ty TNHH Nước đá Ngọc Mai, Công ty TNHH Hưng Thịnh, Hộ kinh doanh Pha Lê và Công ty CP Muối Vĩnh Hảo.

Qua buổi làm việc Bà Nguyễn Thị Truyền – Chuyên gia sản xuất sạch hơn trình bày 04 Báo cáo đánh giá nhanh về sản xuất sạch hơn tại Nhà máy sản xuất nước đá của Hộ kinh doanh Pha Lê, Công ty TNHH Hưng Thịnh, Công ty TNHH Nước đá Ngọc Mai và Nhà máy chế biến muối của Công ty CP Muối Vĩnh Hảo; 04 doanh nghiệp tham dự tham gia cho ý kiến phản biện và đưa ra các câu hỏi thắc mắc như: đối với ngành sản xuất nước đá viên thì có cần xử lý nước bằng công nghệ RO trước khi đưa vào máy sản xuất nước đá không? Có nên làm lạnh nước đầu vào trước khi sản xuất nước đá hay không và nếu có thì tiết kiệm được năng lượng điện nhiều hay ít khi sản xuất nước đá? Tại sao phải khử độ cứng của nước đầu vào trước khi đưa vào sản xuất nước đá?,…Theo đó, các câu hỏi phản biện đặt ra đã được chuyên gia sản xuất sạch hơn Nguyễn Thị Truyền đã giải thích một cách thuyết phục và 04 doanh nghiệp đã thống nhất với Báo cáo đánh giá về sản xuất sạch hơn của đơn vị mình mà chuyên gia đã dự thảo.

Theo sxsh.vn

Nam Định: Sản xuất sạch hơn thúc đẩy phát triển bền vững

Hơn lúc nào hết, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (DN) công nghiệp đang trở thành yêu cầu bức thiết. Nhiều chuyên gia cho rằng, để thực hiện điều này, các DN cần mở rộng áp dụng mô hình sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp.

 Tại tỉnh Nam Định, năm 2014, tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt 9,69%, trong đó dệt may, cơ khí, chế biến thực phẩm… được xem là ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh. Nhiều DN đã chủ động đổi mới công nghệ, áp dụng các công cụ quản lý, các giải pháp SXSH vào sản xuất.Tiêu biểu như Công ty CP May Sông Hồng từ năm 2012 đã chủ động di dời nhà xưởng từ nội thành Nam Định ra Khu công nghiệp Mỹ Trung, xã Mỹ Tân (Mỹ Lộc) và đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống nhà xưởng, thiết bị máy móc theo hướng hiện đại với tổng vốn đầu tư 300 tỷ đồng. Công ty tiếp tục xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và hệ thống trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn SA-8000 và WRAP, hệ thống an ninh nhà máy theo tiêu chuẩn C-TPAT của Mỹ. Chủ động hướng đến mục tiêu đạt thẻ xanh quốc tế về môi trường xanh – sạch trong sản xuất để hội nhập bền vững, công ty đã đầu tư hơn 4 tỷ đồng xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt và xử lý nước thải sản xuất tại Nhà máy May Sông Hồng 4, thị trấn Xuân Trường (Xuân Trường). Hiện nay, công ty đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tại khu sản xuất xã Hải Phương (Hải Hậu) và đang tiếp tục triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải ở tất cả các khu vực sản xuất với mục tiêu tạo môi trường làm việc xanh – sạch – đẹp.

Công ty CP Bia NaDa là một trong những DN tiên phong của tỉnh ứng dụng chương trình SXSH trong toàn bộ quá trình sản xuất. Theo đó, công ty đã lắp đặt hệ thống thu hồi nước ngưng và tuần hoàn trở lại nồi hơi, tái sử dụng xút trong quá trình nấu bia và rửa chai bia, góp phần giảm lượng chất thải ra môi trường, tiết kiệm xút. Nhằm giảm lượng nước tiêu thụ, tổn thất bia tại khâu bão hòa do CO2 bị quá áp làm trào bia theo đường xả áp, DN đã tiến hành kiểm tra, sửa chữa các đường ống, van, vòi bị rò rỉ, lắp đặt thùng chứa trung gian và thiết bị tách bia để thu hồi lượng bia chảy tràn, áp dụng công nghệ chiết bom tự động. Đồng thời, việc áp dụng các giải pháp tiết kiệm triệt để các nguồn tài nguyên trong quá trình sản xuất như lắp tụ bù, biến tần cho động cơ làm lạnh đã giúp công ty tiết kiệm từ 5-10% chi phí điện năng, toàn bộ nước thải trong quá trình sản xuất đều được điều tiết qua trạm xử lý nước thải công suất 800m3/ngày đêm. Đặc biệt, công ty đã chuyển đổi lò hơi đốt than thay cho lò hơi đốt dầu để tiết kiệm 1/3 chi phí sử dụng nhiên liệu vận hành lò hơi.

Tại Công ty TNHH Đúc thép Thắng Lợi (Nam Định), ngoài đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại và đồng bộ của châu Âu, công ty đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 và phương pháp quản lý 5S để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Phương pháp quản lý 5S đã giúp ngăn chặn sự xuống cấp của nhà xưởng, tạo sự thông thoáng cho nơi làm việc, tạo môi trường làm việc ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng, do đó năng suất lao động của công ty đã được nâng lên 1,5-2 lần, tương đương với 1.200 tấn sản phẩm/năm; tỷ lệ sản phẩm lỗi giảm từ 5% xuống còn 1,5%, nhờ đó mỗi năm công ty tiết kiệm được từ 3,5-4 tỷ đồng, đem lại lợi ích kinh tế, môi trường không nhỏ.

Theo sxsh.vn

Sản xuất sạch hơn thúc đẩy phát triển bền vững

Hơn lúc nào hết, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (DN) công nghiệp đang trở thành yêu cầu bức thiết. Nhiều chuyên gia cho rằng, để thực hiện điều này, các DN cần mở rộng áp dụng mô hình sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp. 

Sản xuất sạch hơn thúc đẩy phát triển bền vững

Tại tỉnh Nam Định, năm 2014, tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt 9,69%, trong đó dệt may, cơ khí, chế biến thực phẩm… được xem là ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh. Nhiều DN đã chủ động đổi mới công nghệ, áp dụng các công cụ quản lý, các giải pháp SXSH vào sản xuất.

Tiêu biểu như Công ty CP May Sông Hồng từ năm 2012 đã chủ động di dời nhà xưởng từ nội thành Nam Định ra Khu công nghiệp Mỹ Trung, xã Mỹ Tân (Mỹ Lộc) và đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống nhà xưởng, thiết bị máy móc theo hướng hiện đại với tổng vốn đầu tư 300 tỷ đồng. Công ty tiếp tục xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và hệ thống trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn SA-8000 và WRAP, hệ thống an ninh nhà máy theo tiêu chuẩn C-TPAT của Mỹ. Chủ động hướng đến mục tiêu đạt thẻ xanh quốc tế về môi trường xanh – sạch trong sản xuất để hội nhập bền vững, công ty đã đầu tư hơn 4 tỷ đồng xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt và xử lý nước thải sản xuất tại Nhà máy May Sông Hồng 4, thị trấn Xuân Trường (Xuân Trường). Hiện nay, công ty đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tại khu sản xuất xã Hải Phương (Hải Hậu) và đang tiếp tục triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải ở tất cả các khu vực sản xuất với mục tiêu tạo môi trường làm việc xanh – sạch – đẹp.

Công ty CP Bia NaDa là một trong những DN tiên phong của tỉnh ứng dụng chương trình SXSH trong toàn bộ quá trình sản xuất. Theo đó, công ty đã lắp đặt hệ thống thu hồi nước ngưng và tuần hoàn trở lại nồi hơi, tái sử dụng xút trong quá trình nấu bia và rửa chai bia, góp phần giảm lượng chất thải ra môi trường, tiết kiệm xút. Nhằm giảm lượng nước tiêu thụ, tổn thất bia tại khâu bão hòa do CO2 bị quá áp làm trào bia theo đường xả áp, DN đã tiến hành kiểm tra, sửa chữa các đường ống, van, vòi bị rò rỉ, lắp đặt thùng chứa trung gian và thiết bị tách bia để thu hồi lượng bia chảy tràn, áp dụng công nghệ chiết bom tự động. Đồng thời, việc áp dụng các giải pháp tiết kiệm triệt để các nguồn tài nguyên trong quá trình sản xuất như lắp tụ bù, biến tần cho động cơ làm lạnh đã giúp công ty tiết kiệm từ 5-10% chi phí điện năng, toàn bộ nước thải trong quá trình sản xuất đều được điều tiết qua trạm xử lý nước thải công suất 800m3/ngày đêm. Đặc biệt, công ty đã chuyển đổi lò hơi đốt than thay cho lò hơi đốt dầu để tiết kiệm 1/3 chi phí sử dụng nhiên liệu vận hành lò hơi.

Tại Công ty TNHH Đúc thép Thắng Lợi (Nam Định), ngoài đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại và đồng bộ của châu Âu, công ty đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 và phương pháp quản lý 5S để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Phương pháp quản lý 5S đã giúp ngăn chặn sự xuống cấp của nhà xưởng, tạo sự thông thoáng cho nơi làm việc, tạo môi trường làm việc ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng, do đó năng suất lao động của công ty đã được nâng lên 1,5-2 lần, tương đương với 1.200 tấn sản phẩm/năm; tỷ lệ sản phẩm lỗi giảm từ 5% xuống còn 1,5%, nhờ đó mỗi năm công ty tiết kiệm được từ 3,5-4 tỷ đồng, đem lại lợi ích kinh tế, môi trường không nhỏ.

Theo Thu Hường – ven.vn

Ngành than trên chặng đường sản xuất “sạch”

Song song với phát triển khai thác, sản xuất, kinh doanh than, công tác bảo vệ môi trường luôn được Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) coi trọng và có định hướng phát triển bền vững bằng việc triển khai đồng bộ, tổng thể nhiều giải pháp bảo vệ môi trường, vì mục tiêu sản xuất ngày càng “sạch” hơn.

Xây dựng cơ chế, bố trí nguồn lực bảo vệ môi trường

Để có nguồn vốn thực hiện các dự án, công trình khắc phục ô nhiễm môi trường do quá trình khai thác khoáng sản trước đây để lại và xử lý, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường mới phát sinh, TKV đã thành lập Quỹ môi trường tập trung bằng 1% – 1,5% chi phí sản xuất, đồng thời cho phép các đơn vị thành viên trực tiếp chi 0,3% – 0,5% chi phí sản xuất cho các hoạt động bảo vệ môi trường thường xuyên.

TKV cũng đã xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường trong nội bộ (gồm: Quy chế bảo vệ môi trường, quy chế sử dụng quỹ môi trường tập trung, cơ chế ưu tiên sử dụng dịch vụ của các đơn vị làm công tác bảo vệ môi trường trong TKV…) làm cơ sở pháp lý cho các hoạt động bảo vệ môi trường, tạo điều kiện để chuyên môn hóa, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường trong toàn TKV.

Hệ thống chỉ đạo, quản lý công tác môi trường trong TKV được xây dựng và phát triển. Cấp Tập đoàn có Ban Môi trường; tại các đơn vị thành viên có bộ phận môi trường chuyên trách và đều phân công 1 đồng chí lãnh đạo phụ trách công tác bảo vệ môi trường. Để có lực lượng chuyên nghiệp nắm vững thực tế sản xuất làm nòng cốt thực hiện các công tác bảo vệ môi trường, TKV đã thành lập các đơn vị chuyên ngành làm công tác bảo vệ môi trường (Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ, Môi trường; Công ty TNHH MTV Môi trường; Công ty Cổ phần Xây lắp môi trường Nhân Cơ).

Hàng năm, nguồn kinh phí của TKV dành cho công tác bảo vệ môi trường tương đối lớn. Tổng chi phí cho công tác bảo vệ môi trường hàng năm của TKV đến nay gần 1.000 tỷ đồng, trong đó 70% dành cho đầu tư các công trình bảo vệ môi trường, 30% dành cho các công việc bảo vệ môi trường thường xuyên.

Song song với đó, TKV thường xuyên mở các lớp tập huấn nâng cao hiểu biết, nhận thức về bảo vệ môi trường cho cán bộ quản lý và cán bộ làm công tác bảo vệ môi trường. TKV cũng đã triển khai hợp tác trong và ngoài nước nghiên cứu công nghệ, đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, như: Rame (Đức), Mireco (Hàn Quốc) và Jogmec (Nhật Bản).

Triển khai các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa ô nhiễm

Trong những năm qua, TKV đã cải tạo, phục hồi môi trường được trên 800 ha bãi thải, khai trường đã kết thúc khai thác và phấn đấu đến năm 2020 sẽ cơ bản hoàn thành việc cải tạo, phục hồi môi trường, cảnh quan các khu vực bãi thải gần khu dân cư, đô thị. Đối với những bãi thải đang hoạt động, TKV chỉ đạo các đơn vị thực hiện đổ thải tầng thấp theo đúng thiết kế để ngăn ngừa nguy cơ sạt lở bãi thải, giảm phát sinh bụi, giảm chi phí cải tạo, phục hồi môi trường sau này. Ngoài ra, TKV cũng đã xây dựng 12 đập chắn đất, đá lớn tại các vị trí tụ nước chân các bãi thải để chống trôi, sạt đảm bảo an toàn cho dân cư.

Đến hết năm 2014, TKV đã hoàn thành xây dựng và đưa vào vận hành 40 trạm xử lý nước thải mỏ than và khoáng sản. Hiện đang tiếp tục triển khai xây dựng tiếp 12 trạm, để đến hết năm 2015 sẽ có khoảng 52 trạm xử lý nước thải mỏ, đảm bảo nước sau khi được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường, được tái sử dụng tối đa cho nhu cầu sản xuất, sinh hoạt.

Trước những khó khăn trong việc xử lý các chất thải rắn, đặc biệt là chất thải nguy hại, TKV đã đầu tư 1 nhà máy xử lý tại Cẩm Phả và đang tiếp tục nghiên cứu, đầu tư giai đoạn 2 của nhà máy để xử lý các chất thải khó phân hủy, như: cao su, polyme… Hiện nay, toàn bộ chất thải nguy hại phát sinh trong sản xuất của TKV tại Quảng Ninh được thu gom, xử lý, tái chế tập trung đảm bảo tiêu chuẩn môi trường; sản phẩm sau xử lý được thu hồi tối đa phục vụ cho sản xuất và cung cấp cho các ngành kinh tế khác. Những chất thải rắn thông thường khác được thu gom, đổ thải theo đúng quy hoạch, thiết kế và đúng quy định.

Để giảm thiểu công tác phát tán bụi trong quá trình vận chuyển than, TKV tập trung xây dựng các tuyến đường vận chuyển chuyên dùng. Từ năm 2008, TKV đã chấm dứt vận chuyển than trên các tuyến quốc lộ, từ năm 2013 chỉ vận chuyển than ra cảng bằng ô tô vào ban ngày. Cùng với đó, TKV đã đầu tư 06 tuyến băng tải thay thế ô tô vận chuyển than ra các cảng và đến các nhà máy nhiệt điện. Cùng với đó, TKV cũng đã đầu tư các hệ thống phun sương dập bụi, tường chắn, từng bước kiên cố hóa nền các bãi khu vực sàng tuyển, kho chứa than; xây dựng thử nghiệm 02 trạm rửa xe ô tô, 04 trạm rửa toa xe; thu dọn vật liệu rơi vãi, tưới nước chống bụi bằng ô tô, phủ bạt trên các phương tiện vận chuyển.

Một trong những những việc làm thiết thực, được cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Ninh ghi nhận, đó là ngành than đã chủ động quy hoạch, sắp xếp lại các công trình sản xuất, di dời các nhà máy ra khỏi khu vực đô thị, đông dân cư, như: di dời nhà máy cơ khí Hòn Gai, cơ khí Cẩm Phả, nhà máy tuyển than Hòn Gai, kho than I, II, III tại TP Hạ Long, cảng xuất than Hòn Gai, đường sắt Hà Lầm – Hòn Gai, đường sắt Cột 8 – Hòn Gai…

Hướng đến mục tiêu thành ngành sản xuất “sạch”

Với mục tiêu sản xuất sạch hơn, dự kiến trong giai đoạn 2015 – 2020, TKV sẽ dành từ 1.130 – 1.370 tỷ đồng cho công tác bảo vệ môi trường hàng năm, tăng gấp đôi so với nguồn kinh phí mà ngành than đã bỏ ra trong năm 2010. Như vậy, ngành than đã biết chú trọng hơn trong công tác bảo vệ môi trường, phát triển sản xuất một cách bền vững.

Dự kiến trong giai đoạn tới, bên cạnh đẩy mạnh áp dụng công nghệ khai thác cơ giới hóa như: cột chống thủy lực, dàn chống thủy lực, máy khấu… trong khai thác mỏ than hầm lò; đổi mới đồng bộ thiết bị khai thác than lộ thiên theo hướng hiện đại, công suất lớn, góp phần tăng năng suất, tiết kiệm năng lượng tiêu hao, ngành than tiếp tục đầu tư xây dựng đập chắn đất đá tại chân các bãi thải mỏ; nạo vét, cải tạo hệ thống suối thoát nước; tăng cường phủ xanh các vùng đất trống nhằm hạn chế xói mòn.

Ngành than cũng sẽ tiếp tục đầu tư các tuyến băng tải, phấn đấu đến năm 2020 sẽ thay thế hoàn toàn việc vận chuyển than ngoài mỏ đến các cảng và nhà máy nhiệt điện trên địa bàn tỉnh nhằm hạn chế phát sinh bụi, tiếng ồn, khí thải ra môi trường. TKV đầu tư mở rộng, nâng cấp, đổi mới công nghệ các trạm xử lý nước thải mỏ, nhà máy xử lý chất thải nguy hại và các công trình bảo vệ môi trường khác theo yêu cầu phát triển sản xuất; đầu tư thiết bị lọc ép bùn công suất lớn tại các nhà máy sàng tuyển để tăng tỷ lệ thu hồi khoáng sản, tăng lượng nước sử dụng tuần hoàn, giảm xả thải ra môi trường.

Với những nỗ lực của mình, TKV đang từng bước hướng đến mục tiêu trở thành ngành sản xuất “sạch”, phát triển hài hòa, thân thiện với môi trường và cộng đồng, góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh Quảng Ninh trên chặng đường dài phía trước.

Theo sxsh.vn